Luận về đao kiếm ở trong thơ

Đem “đao kiếm” ra mà gắn vào Nàng Thơ liệu có phù hợp lắm hay chăng? Chuyện cái tên nửa Tây nửa Tàu sẽ tính sau, người viết bài này muốn ủng hộ cho hai từ cửu kiếm và sẽ chứng minh rằng đem đao kiếm vào thơ cũng là chuyện thường tình, chuyện hiểu được, thậm chí làm khéo còn có thể hay, để lại những câu thơ bất hủ lưu vào sử sách.

Đao kiếm trong thơ Trung Quốc

Xét trong thi ca của Trung Quốc và của Việt Nam, người đưa chữ kiếm vào thơ một cách sớm nhất và hay nhất có lẽ là Lý Bạch. Trong bài Hành lộ nan, ông viết:

“Đình bôi đầu trợ bất năng thực
Bạt kiếm tứ cố tâm mang nhiên.”

Lý Bạch vốn là người từ nhỏ đã say mê kiếm thuật, 15 tuổi đã nức tiếng cả về tài kiếm lẫn tài thơ. Ông còn lên núi Đái Thiên Sơn để luyện kiếm và học đạo, sống cuộc đời của một ẩn sĩ trong vòng 2 năm, sau đó xuống núi làm hiệp sĩ, mặc áo trắng, vai đeo bầu rượu lớn, chống kiếm lên đường đi viễn du. Lý Bạch là người sinh ra trong thời loạn, khó có thể không dùng đến kiếm. Trên một “nền tảng cơ sở” như thế, cũng là dễ hiểu vì sao Lý Bạch có thể viết được hai câu thơ với giọng điệu bất khuất như trên, thể hiện được cái chí của một người sĩ văn võ.

Sau này, “kiếm” một lần nữa tái hiện trong thơ Lý Bạch nhưng qua một biến thể khác là “đao” và câu thơ về “đao” này cũng nổi tiếng không kém gì câu thơ trước, được nhiều thế hệ đi sau ngâm ngợi:

“Trừu đao đoạn thủy thủy cánh lưu
Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu.”

(Đường Chấn Tạ Diễu Lâu tiễn biệt hiệu thư Thúc Vân)

Đao và kiếm trong những câu thơ của Lý Bạch không còn là chất liệu, là hình ảnh nữa mà nó đã được thổi hồn sống động, được nâng lên thành hình tượng nghệ thuật để diễn tả những cung bậc tâm trạng của con người trước thời cuộc. Tâm trạng ấy thường là bất bình, buồn thương, thậm chí là bi phẫn trước nhân tình thế thái. Nhưng bi mà không lụy, đao và kiếm trong thơ Lý Bạch cho ta cảm giác về những ngạo khí, tráng khí hiên ngang của một cốt cách không bao giờ bị khuất phục.

Chuyện đao kiếm trong thơ Trung Quốc, một đại diện Lý Bạch đã là quá đủ, giờ ta sẽ chuyển qua thơ Việt xem đao kiếm được đưa vào như thế nào. Nhưng cũng phải nói ngay rằng, về bản chất ngôn ngữ học, kiếm và gươm vốn là hai từ cùng một gốc do quá trình biến đổi lịch sử cặp phụ âm đầu /g/ và /k/.

Đao kiếm trong thơ Việt

Bên cạnh cặp “gươm – kiếm” còn có thể kể đến một loạt cặp từ khác trong thế tương ứng hai phụ âm đầu /g/ – /k/ như “cán – gần, gương – kính, gái – cái”… Thì trong thi ca trung đại Việt Nam, người đưa kiếm vào thơ sớm nhất có lẽ chính là Đặng Dung (? – 1414) đời Trần qua bài thơ “Cảm hoài” nổi tiếng:

“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ lộ Long Tuyền đái nguyệt ma.”

(Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày).

Câu thơ Đặng Dung với hình ảnh “gươm mài bóng nguyệt” đã diễn tả được tâm trạng xót xa bi phẫn của người anh hùng lỡ vận. Nỗi buồn thương ấy cũng là sự bất lực, bế tắc khi thời cuộc không thể xoay chuyển, cá nhân không thể đảo ngược bánh xe của lịch sử. Câu thơ của Đặng Dung cũng là một câu thơ hay hiếm hoi với hình ảnh đao kiếm trong thời kỳ trung đại của văn học Việt Nam.

Tuy thế, trong “Truyện Kiều” cũng sẽ có đôi câu thơ làm ta nhớ khi khắc họa hình ảnh người anh hùng Từ Hải văn võ toàn tài, cũng là một anh hùng của thời loạn:

“Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.”

Trong thơ Việt mới, câu thơ hay về kiếm xuất hiện trong hồn thơ Cao Bá Quát (1809 – 1855). Đầu tiên là đôi câu đối nổi tiếng thường được coi như biểu tượng về tâm hồn và khí phách của thi sĩ họ Cao:

“Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa.”

Dùng một chữ cực cương, dương tính (kiếm) để đối lại với một chữ cực nhu, âm tính (mai) mà không hề gò bó, khiên cưỡng, trái lại còn khiến đôi câu đối được cấp thêm một đời sống khác, bỗng trở thành một câu thơ hạng nhất, đẹp lung linh với nhiều sắc thái vừa tương phản vừa hòa hợp.

Sau Cao Bá Quát, thơ Việt mới lại xuất hiện những câu thơ hay về kiếm trong hồn thơ Cao Bá Quát (1809 – 1855). Đầu tiên là đôi câu đối nổi tiếng thường được coi như biểu tượng về tâm hồn và khí phách của thi sĩ họ Cao:

“Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa.”

Dùng một chữ cực cương, dương tính (kiếm) để đối lại với một chữ cực nhu, âm tính (mai) mà không hề gò bó, khiên cưỡng, trái lại còn khiến đôi câu đối được cấp thêm một đời sống khác, bỗng trở thành một câu thơ hạng nhất, đẹp lung linh với nhiều sắc thái vừa tương phản vừa hòa hợp.

Sau Cao Bá Quát, thơ Việt mới lại xuất hiện những câu thơ hay về kiếm.

Trương Trào trong kiệt tác “U mộng ảnh” có viết một câu nổi tiếng: “Điều bất bình nhỏ trong đời, uống rượu vào có thể tan được. Điều bất bình lớn trong đời, không dùng gươm không thể dẹp được”.

Như vậy, đừng bao giờ ngần ngại xem có nên đưa kiếm vào thơ hay không, đừng bao giờ phân vân nghĩ rằng Nàng Thơ mềm mại thướt tha không phù hợp với thanh kiếm sắc. Miễn là đao kiếm đi vào thơ phải trở thành hình tượng đẹp, thậm chí lộng lẫy, diễn tả được những điều ở bên ngoài đao kiếm thì chắc chắn rằng những câu thơ như thế sẽ mang đầy cơ hội để lại cho đời vậy!