Thành ngữ thời bao cấp

Thành ngữ thời bao cấp

Thời bao cấp – Những câu thành ngữ của người Việt Nam trong thời kì khó khăn

Thời bao cấp, một giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1986, được cho là thời kì đặc biệt đối với người dân Việt Nam. Trong thời gian này, nhà nước trực tiếp chi trả cho đời sống kinh tế của người dân, mọi hoạt động kinh doanh tư nhân bị loại bỏ và hàng hóa chỉ được phân phối thông qua tem phiếu do Nhà nước kiểm soát. Thật đáng ngạc nhiên là trong thời kì khó khăn như vậy, mọi người vẫn tìm thấy niềm vui và hài hước trong những câu thành ngữ phản ánh cuộc sống thực tế.

Đừng thách nhà giàu húp tương

Tương, một thức ăn phổ biến ở nông thôn, đối với người giàu chỉ là một nguyên liệu để kho cá hoặc trang trí món ăn, và không được sử dụng quá thường xuyên. Ngược lại, người nghèo có thể dùng tương làm thức ăn chính, ăn cùng cơm hàng ngày. Do đó, tương – cà, hay cua – cáy, lươn – chạch thường được liên kết với người nghèo.

Lý do tại sao lại thách nhà giàu húp tương? Đó là vì những người có thể coi là giàu có đã trải qua thời bao cấp và đổi mới, họ đã phải làm nhiều công việc khác nhau để kiếm sống và trải qua nhiều khó khăn. Ví dụ, một người đã kể lại: “Tôi từng đi mua chổi đót, lá chít từ vùng quê lên Hà Nội. Tôi đã lạc trong rừng và ngủ trong rừng. Tôi còn làm men nấu rượu, làm bánh kẹo, làm giá đỗ và không thiếu nghề gì trên đời”. Thực sự, đó là cuộc sống của nhiều người thời bao cấp.

Ngay cả trong gia đình tôi, cha tôi là một giáo viên, sinh năm 1960. Tuy nhiên, vào những năm 80 và đầu 90, lương của giáo viên rất thấp. Vì vậy, ông đã phải làm nhiều công việc khác nhau để kiếm thêm thu nhập, như làm ruộng, trồng cây, nuôi cá, lợn, dê, gà và cả nấu rượu. Ông đã làm bất cứ công việc gì có thể để kiếm tiền. Thậm chí, một số giáo viên còn đi buôn hoặc tìm đến những công việc phiêu lưu, thậm chí là đào vàng. Điều này không chỉ xảy ra với gia đình tôi mà còn với nhiều người khác.

Vì vậy, khi người ta nói “đừng thách nhà giàu húp tương”, họ muốn gửi một thông điệp rằng: Dù tôi có khác biệt hơn và có thể có địa vị xã hội, tôi đã trải qua nhiều khó khăn và có nhiều kinh nghiệm. Đừng nghĩ rằng tôi không biết và không có khả năng đối phó. Hãy tôn trọng tôi và ứng xử đúng mực. Tôi không phải là người dễ bị qua mặt.

Ăn như sư, ở như phạm

Vào năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng Phong trào Bình dân học vụ và đã đạt được thành công lớn trong việc giúp hàng triệu người Việt Nam thoát khỏi mù chữ. Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã hướng dẫn thành lập một hệ thống đào tạo giáo viên ngay cả trong thời kì chiến tranh chống Pháp.

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội được thành lập vào năm 1951 và sau đó là nhiều trường sư phạm khác như Đại học Sư phạm Vinh (1959) và Đại học Sư phạm Thái Nguyên (1966). Sinh viên sư phạm được nhà nước hỗ trợ học phí và chi phí sinh hoạt. Y tế và sư phạm được coi như hai ngành nghề quan trọng của đất nước.

Tuy nhiên, nguồn kinh phí cho giáo dục rất hạn chế trong bối cảnh nhu cầu cao. Các trường đại học phải đối mặt với áp lực tài chính lớn để hỗ trợ học tập và sinh hoạt hàng ngày của sinh viên. Câu thành ngữ “ăn như sư, ở như phạm” mô tả cuộc sống khó khăn của sinh viên sư phạm thời bao cấp. Ăn như sư có nghĩa là ăn uống kham khổ như các nhà sư, và sống như phạm tức là ở trong những nơi chật chội, thiếu vệ sinh giống như phòng tù.

Thành ngữ này sử dụng cách chơi chữ để “chia đôi” từ sư – phạm thành hai phép so sánh. Cách chơi chữ này khiến việc dịch sang các ngôn ngữ khác không thể truyền đạt được ý nghĩa đầy đủ. Một số câu thành ngữ khác cũng tương đương với ý nghĩa này, như “Nhất y, nhì dược, tạm được bách khoa, sư phạm bỏ qua” hoặc “chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”.

Khi tìm hiểu về các thành ngữ thời bao cấp, ta có thể thấy đa dạng mặt đời sống và xã hội trong giai đoạn đầy biến động này. Thật giống như một vở hài kịch, chúng mang nhiều mặt trái ngược, vừa buồn vừa hài hước, vừa nhớ vừa thương, và là một kỷ niệm khó quên mà không ai muốn trải lại. Thành ngữ này cũng phản ánh tính cách tốt đẹp của người Việt Nam, luôn lạc quan và vượt qua khó khăn.

Năm 1986, cuộc Đổi Mới đã khởi đầu, chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch sang thị trường đã mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân. Một số thành ngữ, tục ngữ và ca dao đã tự nhiên mất đi trong quá trình này, chẳng hạn như “ăn bẩn sống lâu” hoặc “sống mà ăn sắn”.