Hồn thiêng Côn Đảo

Đêm đã khá muộn tại Côn Đảo. Tiếng sóng vỗ về nhau cứ kéo dài mãi mãi, tạo nên những âm thanh lúc lắc kèm theo những tia nước trắng xóa nhấp nhô trên biển trước khi chìm dưới chân cầu tàu số 914. Cảnh nghĩa trang Hàng Dương vẫn u buồn và trong lặng. Các mộ trắng ngần ngừ yên tĩnh dưới những cây cao to, như những nhân chứng lịch sử trên hòn đảo đầy bi ai và chuyện truyền kỳ này. Những lễ vật nhỏ leo lét đột nhiên bùng cháy trong đêm lạnh, làm tan biến không khí u ám, u tối. Gió nổi lên. Lá rơi xao xác. Ánh trăng tỏ lúc rạng rỡ, lúc tối mờ, làm cho khoảng không trở nên huyền bí và thăm thẳm.

“- Sao cậu cảm thấy rùng mình thế này, em ơi! Ở đây chắc có ma đông lắm. Liên nói cắt nghĩa câu thấy được, câu không.”, tôi hỏi.

“- Không có ma đâu. Nếu có thì chắc là ma linh của cô Sáu và những người Cách mạng bị giết chết trên hòn đảo này. Ba Hà trả lời một cách chắc nịch kèm theo chút buồn bã.

“- Cô Sáu là ai? Và tại sao cô ấy lại chết ở đây?”, tôi tò mò hỏi.

“- Bây giờ cậu vẫn còn nhỏ nên chưa biết điều đó. Cô Sáu là cô Võ Thị Sáu, quê miền Đất Đỏ, Bà Rịa. Nếu còn sống đến nay, phải gọi là bà Sáu rồi. Nhưng gọi bằng cô vẫn giữ “dấu cổ” trẻ trung.”, Ba Hà trả lời.

“- À, tôi đã nghe nói về cô Sáu. Bất kể trẻ nhưng cô ấy gan dạ lắm. Đánh giặc thì rất dũng cảm. Nghe nói cô ấy đã hy sinh khi còn rất trẻ.”, tôi nói.

“- Việc cô ấy hy sinh cho cách mạng thì ai cũng biết. Báo chí đã rầm rộ, người ta viết truyện, làm phim, viết thơ, cải lương, bài hát về cô ấy rất nhiều. Còn có nhiều câu chuyện mà không phải ai cũng biết.”, Ba Hà nói.

“- Có chuyện gì bí mật thế này, ông?”, tôi hối thúc.

“- Từ từ mình sẽ kể. Câu chuyện này đã theo mình suốt năm chục năm, khi mình còn làm tỉnh trưởng cho chế độ Sài Gòn. Đó là câu chuyện về việc làm bia mộ bí mật cho cô Sáu. May mà nếu lộ ra, chắc tôi và bà ngồi ở đây bên cạnh cô Sáu rồi.”, Ba Hà nói.

Những kỷ niệm gần nửa thế kỷ trước trỗi dậy trong đôi mắt già nua của một sĩ quan cũ của chế độ cũ. Ông nhìn ra biển, nhìn sâu vào không gian rộng lớn đang bao phủ lên nghĩa trang Hàng Dương và cầu tàu số 914, nơi đã chôn vùi bao sinh mạng của những người cộng sản, sống vì Đảng, chết vì dân. Lúc nào ông cũng không thể hiểu được sức mạnh nào đã in sâu vào trái tim và tâm trí của họ mà không có bất kỳ đòn tra tấn nào có thể làm rung chuyển ý chí và ý nghĩ phi thường tiềm ẩn trong họ. Trước cái chết, họ vẫn ung dung tự nhiên, nói đúng là họ rất tự hào khi được hy sinh cho sự độc lập tự do.

Khi ra đảo, ông và vợ nghe rất nhiều câu chuyện về những chiến sĩ kiên cường đó. Trong số đó, câu chuyện về cô Sáu trước khi hy sinh vẫn luôn ca hát và yêu đời, từ chối lời xin lỗi của linh mục làm ông bỗng nhiên xót xa mãi. Người lính đảo rất sợ linh hồn cô Sáu sau khi một người lính điên dùng búa đập vỡ tấm bia mộ của cô Sáu. Kể từ đó, không ai dám đến làm phiền mộ phần của cô Sáu nữa. Mặc dù vậy, tấm bia hỏng này không ai đến tu sửa cho đàng hoàng.

Nghe đồn vào ban đêm, người dân trên đảo thường nhìn thấy hình dáng của một cô gái trẻ mặc áo trắng và quần đen bay lơ lửng từ nghĩa trang Hàng Dương vào các trại giam rồi bay về biển. Mỗi ngày trên mộ linh thiêng đó, luôn có nhiều bông hoa tươi trên đảo nhưng không ai biết ai đã mang đến và mang đến vào lúc nào. Còn một câu chuyện bí ẩn khác mà Ba Hà nghe nhiều người đồn thổi là các tù chính trị trên đảo đang giấu giếm một bộ áo dài còn mới của cô Sáu để làm kỷ niệm và tìm cơ hội chuyển về đất liền cho những người cách mạng. Dù đã lục tung và hỏi tra nhiều ngày đêm, nhưng không tìm được vết tích. Ông hiểu, bộ áo dài đơn sơ của người phụ nữ cộng sản trẻ đó đã trở thành một vật báu linh thiêng của những tù nhân cộng sản trên Côn Đảo này.

Ngày chia tay vợ ở cầu tàu, Ba Hà nói nhỏ vào tai vợ:

“- Tháng sau, khi tôi ra đảo, em hãy đặt một tấm bia đá quý khắc tên cô Võ Thị Sáu, bất kể giá nào cũng được. Rồi, em lừa láo đem tấm bia này ra đây cho tôi.”

“- Chẳng cần lo về tiền, chỉ lo lính phát hiện ra thôi, chúng ta sẽ gặp rắc rối đấy. Tôi lo quá trời.”, vợ Ba Hà lo lắng.

“- Đừng nói bậy. Đừng lo. Tôi có theo quốc gia, nhưng tôi rất ngưỡng mộ cô Sáu đến mức không thể nào tả được. Chắc là linh thiêng của cô ấy bảo bọc cho tấm bia này để tôi có thể đem nó ra đảo một cách an toàn. Khi thấy tấm bia đã hủy hoại, tôi cảm thấy thật xót xa, không thể tả được, em ơi!”, Ba Hà nói.

Ngày quan trọng đó đã đến. Vợ Ba Hà bọc kín tấm bia mộ bằng đá quý, được gói cẩn thận bằng hàng chục lớp giấy nhựt trình và vải, cột chặt bằng dây dù, dây thừng và các lớp băng keo. Trời trong tháng 7 mưa dầm mà mồ hôi của vợ Ba rơi ướt mặt. Khi người lái xe đưa tấm bia xuống tàu để đến Côn Đảo, tim của bà như muốn dừng lại khi nghe giọng của một người lính an ninh bên bến tàu la:

“- Thằng kia, đứng lại. Vác cái gì trên vai mà nặng như vậy? Là những bộ đồ tiếp tế cho tù nhân Việt cộng ở ngoài đảo hả? Hạ xuống để tao kiểm soát trước khi đi.”

“- Dạ, xin chú thông cảm. Đồ này không phải của tôi. Tôi vác nó xuống cho bà tỉnh trưởng. Bà xuống trước dưới tàu kia đấy. Có gì chú hỏi bà, chứ tôi không biết gì đâu.”, người lái xe nói.

Ba Hà liếc mắt xuống và thấy bà Ba Hà mặc áo dài, đội khăn thề, mang guốc mộc đang đọc báo dưới tàu. Một người lính tiến tới và hỏi nhẹ:

“- Thưa bà tỉnh trưởng, thằng kia nói là vác đồ cho bà xuống tàu đến đảo, có thật không? Và đồ đó có vẻ nặng quá vậy, thưa bà?”

Mặc dù tim bà đập loạn xạ vì hồi hộp, bên trong bà cảm thấy yên lòng hơn và bình tĩnh hơn bao giờ hết.

“- Đúng vậy. Đó là đồ của tôi. Mấy tấm tranh bằng đá đó. Người kia yêu cầu tôi mang ra để treo trong phòng làm việc của mình. Nếu những gã không đồng ý, tôi sẽ mở cho chú kiểm tra. Bà nói một cách mạnh mẽ, đầy thách thức.

“- Được rồi. Không cần. Tôi chỉ hỏi thôi, không phải đồ của tỉnh trưởng. Các em không dám làm điều đó.”, người lính trả lời.

Khi người lính rời khỏi tàu, tấm bia đá được đặt xuống cái giường “thượng khách”, Ba Hà nhỏ người xuống giường và thở dễ hơn, tay chân run lên nhẹ nhàng, lạnh ngắt, trở nên xanh rờn. Tàu rời bến. Những đợt sóng dữ bắt đầu dồn về. Trời tối tăm. Tàu chạy hết công suất để kịp về bờ trước khi cơn bão ập đến. Gió thổi mạnh. Mọi người trên tàu bắt đầu lo lắng. Có người niệm Phật, có người khóc và than van lo sợ trước sức mạnh của sóng gió. Ba Hà ôm chặt tấm bia mà nguyện cầu:

“- Cô Sáu, linh hồn hiền lành và thiêng liêng, xin hãy giúp tôi vượt qua khó khăn này. Mong rằng sóng gió sẽ tan biến, bình yên trở lại để tôi có thể đặt tấm bia này trước mộ của cô. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.”

Trong cơn mơ đầy giông bão, Ba Hà thấy hình ảnh của cô Sáu hiện lên, đôi khi ẩn mình, đôi khi hiện rõ trên biển cười tươi thật hạnh phúc. Có lúc cô ấy cầm một bó hoa dừa đất và tiến gần cửa sổ nơi Ba Hà nằm, như để an ủi và che chở cho Ba Hà qua cơn bão, để Ba Hà hoàn thành nguyện vọng của mình.