Thần sát – khái niệm quen thuộc trong mệnh cục của Tứ trụ, đã được đề cập trong nhiều sách cổ đại. Mặc dù có sách khẳng định vai trò quan trọng của thần sát, cũng có sách phủ định. Thực tế đã chứng minh tác dụng của thần sát trong dự đoán, như việc sử dụng kình dương để đoán việc xấu, thiên đức, nguyệt đức để đối phó với vận xui, và hoa cái, thiên y, trạch mã, đào hoa để phân tích tính cách và nghề nghiệp. Tuy nhiên, trong việc dự đoán cát hung cho một đời người, các thần sát này không có tác động mạnh như kình dương, thiên đức, nguyệt đức. Thần sát thường dựa vào địa chỉ để tăng cường sức hình, xung, hợp, hại.
Thầy Thiệu Vĩ Hoa, trong hai cuốn sách “Chu dịch dự đoán học” và “Dự đoán theo Tứ trụ”, đã thu thập tinh hoa từ nhiều người hiền để có được các kiến giải độc đáo trong thực tiễn dự đoán. Do đó, ở đây chúng ta chỉ trình bày các phương pháp ghi nhớ quy luật một cách nhanh nhất để giới thiệu cho mọi người.
Contents
Cát Thần và Hung Sát
Cát thần không phải là thần sát càng nhiều càng tốt, và hung sát cũng không phải là không có là tốt. Rất nhiều thần sát thường có cả cát lẫn hung. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm tổng hợp, ta thấy người có nhiều thần sát thì mệnh cục của họ thường phức tạp, nhưng nếu tổ hợp Tứ trụ tốt và phối hợp với thần sát thì người đó thường là những người xuất chúng. Ngược lại, đối với người dân bình thường, thần sát ít và mệnh cục đơn giản thì dự đoán cũng dễ dàng hơn. Tuy nhiên, mọi việc không bao giờ tuyệt đối, và việc có nhiều hung sát chưa chắc sẽ gặp xấu. Quan trọng là phải xem các tổ hợp của Tứ trụ và tổ hợp của tuế vận là hỉ hay là kị.
Ngoài ra, thần sát hoặc cát hoặc hung cũng không phải là tuyệt đối, mà chỉ có thể nói rằng một thần nào đó lấy cát làm chính, một sát nào đó lấy hung làm chính. Nếu cát thần gặp xung khắc hại thì tác dụng của nó gần như không có, còn hung sát bị chế hợp không đủ sức để gây hại. Quan trọng là xem các con chị gặp hình hợp, xung khắc hay không để xem tác dụng của chúng. Trong mệnh cục, gặp cát thần thì cuộc đời thuận lợi, trong vận, trong năm gặp cát thần thì tốt càng tốt. Trong Tứ trụ, gặp hung thần là xấu, có thể gây tai hoạ. Trong vận, trong năm gặp hung sát thì hung sát càng nhiều càng xấu.
Thiên Đức, Nguyệt Đức
Thiên đức và nguyệt đức là những thần sát dùng thiên can và nguyệt can để tra từ Tứ trụ. Thiên đức được xác định bằng tháng sinh, chẳng hạn như tháng Tí thấy Tị, tháng Sửu thấy Canh, tháng Dần thấy Đinh, tháng Mão thấy Thân, tháng Thìn thấy Nhâm, tháng Tị thấy Tân, tháng Ngọ thấy Hơi, tháng Mùi thấy Giáp, tháng Thân thấy Quý, tháng Dậu thấy Dần, tháng Tuất thấy Bính, tháng Hơi thấy Ất. Cách tra thiên đức quý nhân của người sinh vào các tháng Tí, Ngọ, Mão, Dậu là xem ngôi trường sinh của ngũ hành rồi tra từ đó. Ngoài ra, còn có cách gọi khác là tháng Tí gặp quẻ Tốn Thìn là Thuỷ Đức, tháng Mão gặp quẻ Khôn Mùi là Mộc Đức, tháng Ngọ gặp quẻ Càn Tuất là Hoả Đức, tháng Dậu gặp quẻ Cấn Sửu là Kim Đức. Thành phần khác của ngũ hành dương vượng, chính ngôi phát phát ra hình tượng của phương cung. Thiên đức chỉ sử dụng địa chỉ, không sử dụng thiên can, cho nên lấy bốn quẻ trên. Trong thực tế, việc sử dụng ngôi trường sinh để xác định thiên đức quý nhân cho những người sinh vào các tháng Tí, Ngọ, Mão, Dậu là khá chuẩn. Độc giả có thể căn cứ vào thiên, nguyệt đức của những người sinh vào bốn tháng trên, xem xét quá trình gặp hung hóa cát của họ để kiểm nghiệm.
Nguyệt đức, tương tự như thiên đức, được tra bằng nguyệt can. Sinh vào các tháng Dần, Ngọ, Tuất thấy Bính; Sinh vào các tháng Thân, Tí, Thìn thấy Nhâm; Sinh vào các tháng Hơi, Mão, Mùi thấy Giáp; Sinh vào các tháng Tị, Dậu, Sửu thấy Canh. Phương pháp nhớ cách tra nguyệt đức là căn cứ vào khí của tam hợp, ví dụ Dần, Ngọ, Tuất thuộc hoả thì lấy Bính hoả làm đức; Thân, Tí, Thìn thuộc thuỷ thì lấy Nhâm thuỷ làm đức; Tí, Dậu, Sửu thuộc kim thì lấy Canh kim làm đức; Hợi, Mão, Mùi thuộc mộc thì lấy Giáp mộc làm đức để quy nạp. Phàm các tháng trong mệnh cục gặp can dương vượng khí đều là gặp nguyệt đức.
Hai quý nhân thiên đức và nguyệt đức đều liên quan đến cuộc sống không gặp nguy hiểm. Thiên đức quý nhân là cát tinh phúc tường, tính tình nhân từ đôn hậu, cuộc đời phúc nhiều, ít nguy hiểm, gặp hung hoá cát, hoá hiểm thành an, như là có thần bảo hộ. Nguyệt đức quý nhân là cát tinh phúc thọ. Trong Tứ trụ, người có cả thiên đức và nguyệt đức có năng lực gặp hung hoá cát rất mạnh, gặp được các thần thì càng tốt, gặp phải hung thần cũng bớt xấu rất nhiều, nhưng gặp phải xung khắc thì vô dụng.
Thiên Ất Quý Nhân
Thiên ất quý nhân được tra bằng can ngày hoặc can năm trong Tứ trụ. Cách tra là lấy giáp hoặc mậu làm chủ để tra các địa chỉ trong Tứ trụ. Can ngày giáp gặp tuất, can ngày ất gặp tí; can ngày bính, mậu gặp hơi, dậu; can ngày đinh, tân gặp dần, ngọ; can ngày canh, nhâm gặp thân, quý; can ngày Ất gặp dậu.
Thiên ất quý nhân chủ về thông minh, trí tuệ, là thần gặp hung hoá cát. Nếu hợp hóa thành dụng thần, hoặc hỉ thần là rất tốt, rất kị gặp hình, xung, khắc, hại, suy, bệnh, tử, tuyệt. Người mà thân vượng thì phúc quý càng tăng thêm, cuộc đời ít bệnh tật, người mà thân nhược thì bệnh nhiều hoặc giảm phúc quý.
Thiên ất quý nhân là ngôi sao ở phía bên trái sao tử vi trong thiên thể, là chủ tể của muôn thần. Trụ năm hoặc trụ tháng gặp được hai quý nhân là có ý phân âm dương để trị, hàm ý trong ngoài có khác nhau. Thìn, tuất là vị trí của sao khôi canh, cho nên quý nhân không đến.
Lộc Thiên Can
Lộc thiên can được tra bằng can ngày trong Tứ trụ. Cách tra là lấy ngày giáp làm chủ để tra các địa chỉ khác trong Tứ trụ. Phàm can ngày mà gặp lộc trên chi năm gọi là tuế lộc, trên chi tháng là kiến lộc, trên chi ngày là chuyện lộc, tọa lộc, trên chi giờ là quy lộc.
Thần lộc vượng mà gặp địa chỉ kiếp tài, không gặp phải hình, xung, khắc, phá là chủ về công danh thuận lợi. Thân vượng mà lộc nhiều thì nên bị khắc cho xì hơi, thân nhược mà lộc vượng lại không bị phá đều là quý mệnh. Lộc kị bị xung phá, ví dụ giáp lộc là dần, gặp thân là bị phá, mão lộc kị gặp dậu, tị lộc kị gặp hợi, ngọ lộc bị gặp tí. Vì quan viên gặp phải thì mất quan mất chức, nghèo khổ hư danh, người thường gặp phải thì cơm áo không no, bôn ba vất vả.
Ngày giáp lộc ở dần; ngày Ất lộc ở mão. Ngày Bính, Mậu lộc ở tị; ngày Đinh, Kỉ lộc ở ngọ; Ngày Canh lộc ở thân; ngày Tân lộc ở dậu; Ngày Nhâm lộc ở hợi; ngày Quý lộc ở tỉ.
Lộc nhờ có thế lực mà được hưởng thì được gọi là lộc, là cát thần. Lộc là khí của bốn mùa, tuỳ theo ngũ hành vượng, trong đó Bính lộc ở tị, Đinh lộc ở ngọ, Mậu lộc ở tị, Kỉ gửi ở ngọ, Hoả sinh thổ là tí nhờ mẹ mà được hưởng lộc, thìn, tuất là khối Canh là chỗ ác địa, kém cỏi cho nên lộc thần không gửi. Sửu, Mùi là cửa xuất nhập của thiên ất quý nhân, cho nên lộc lánh xa, do đó không có lộc. Cách nhớ thập can lộc chỉ cần nhớ can ngày, bản khí của nó là địa chi là được. Ví dụ: dần mộc tàng can của bản khí là giáp mộc.
Thiên Y
Thiên y được tra bằng chi tháng trong Tứ trụ. Lấy tháng Tí thấy Hợi; tháng Sửu thấy Tí. Tháng Dần thấy Sửu; tháng Mão thấy Dần. Tháng Thìn thấy Mão; tháng Tị thấy Thìn. Tháng Ngọ thấy Tị; tháng Mùi thấy Ngọ. Tháng Thân thấy Mùi; tháng Dậu thấy Thân. Tháng Tuất thấy Dậu; tháng Hơi thấy Tuất.
Phàm trong Tứ trụ gặp một trong các chi trên là có thiên y. Thiên y vượng là cát tinh, nắm quyền chữa các bệnh tật. Mệnh gặp thiên y là người có y thuật hoặc trong gia tộc có người làm thuốc. Thiên y nhược thì không phải là sao tốt, người như thế nếu không bệnh tật thì thân thế cũng yếu đuối vô lực.
Cách nhớ thiên y là chỉ sau chi tháng, ví dụ tháng Dậu gặp chi Thân là có thiên y.
Kình Dương
Kình dương được tra bằng can ngày trong Tứ trụ. Lấy can ngày giáp gặp Mão; can ngày Ất gặp Dần; can ngày Bính, Mậu gặp Ngọ; can ngày Đinh, Kỉ gặp Tị; can ngày Canh gặp Dậu; can ngày Tân gặp Thân; can ngày Nhâm gặp Tí; can ngày Quý gặp Hơi.
Các con chị trong Tứ trụ gặp các chi như trên là có bình dương. Mệnh gặp phải kình dương là hung nhiều cát ít. Lộc quá mức thì thành công đến cực đỉnh mà vẫn chưa rút lui thì sẽ bị tổn thương. Nếu là người có quy mệnh để áp chế sát thì bình dương kết hợp tướng tinh sẽ tạo thành uy phong không cản nổi. Thân nhược gặp bình dương thì nó có thể giúp trợ thân, nhưng mệnh có bình dương thì nguy hiểm như làm bạn với hổ. Nếu bình dương bị hợp, bị xung, bị hình hoặc lâm tuế vận thì dễ bị tai nạn nghiêm trọng.
Có một số sách cổ đặt kình dương của can âm vào vị trí trước lộc, tức là kình dương của Ất ở Thìn, Bính Dương của Định, Kỉ ở Mùi, Kình Dương của Tân ở Tuất, Kinh Dương của Quý ở Sửu, như thế là sai. Vì ý chính của hình dương không giống như cuối lộc là phúc (ở vào đất lâm quan) mà kình dương là làm quan trước đế vương một ngôi. Lý âm dương của vạn vật là ác tuy cực thịnh nhưng nếu chưa đầy thì chưa đến cực điểm, đây thì sẽ tràn ra cho nên đây là tai hoạ. Kình dương là hung mãnh đến các điểm, thế tất không tránh khỏi chuyển sang mặt trái. Cách nhớ là chỗ nhật can đế vượng là bình dương.
Lục Giáp Không Vọng
Lục giáp không vọng được tra bằng can chi của trụ ngày trong Tứ trụ. Can chi ngày tuần giáp Tí, Tứ trụ không có Tuất, Hợi. Can chi ngày trong tuần giáp Tuất, Tứ trụ không có Thân, Dậu. Can chi ngày trong tuần giáp Thân, Tứ trụ không có Ngọ, Mùi. Can chi ngày trong tuần giáp Ngọ, Tứ trụ không có Thìn, Tị. Can chi ngày trong tuần giáp Thìn, Tứ trụ không có Dần, Mão. Can chi ngày trong tuần giáp Dần, Tứ trụ không có Tí, Sửu.
Lục giáp không vọng là hung nhiều, cát ít. Cát tinh gặp không vọng là không tốt, nhưng ngược lại kị thần gặp không vọng thì không còn là hại nữa. Cái được sinh vượng, khí chất quảng đại phần nhiều thu đượcnhững danh lợi bất ngờ, nếu gặp tử tuyệt thì thành công nhiều mà thất – bại cũng lắm, phiêu bạt giang hồ.
Đào Hoa
Đào hoa được tra bằng chi ngày và chi năm trong Tứ trụ. Chi ngày, năm là Dần, Ngọ, Tuất gặp Mão. Chi ngày, năm là Thân, Tí, Thìn gặp Tị. Chi ngày, năm là Tị, Dậu, Sửu gặp Thân. Chi ngày, năm là Hợi, Mão, Mùi gặp Tí.
Người có đào hoa thường có cả cát và hung, nhưng có thể dễ dàng nhận ra những người đẹp, thông minh, nghệ nhân. Tuy nhiên, khi tổ hợp không tốt, người có đào hoa sẽ dễ rơi vào sự phong lưu, quan hệ mờ ám giữa nam nữ. Đào hoa rơi vào đất mộc dục còn có tên là hàm trì. Cách nhớ là sau trường sinh một ngôi là mộc dục.
Ngày Âm Dương Xô Lệch
Ngày âm dương xô lệch được tra bằng can chi của trụ ngày trong Tứ trụ. Ngày Bính Tí, ngày Định Sửu, ngày Mậu Dần, ngày Tận Mão, ngày Nhâm Thìn, ngày Quý Tị, ngày Bính Ngọ, ngày Định Mùi, ngày Mậu Thân, ngày Tận Dậu, ngày Nhâm Tuất, ngày Quý Hợi.
Âm dương xen kẽ như nam đi ngược lại dương cương, nữ đi ngược lại ấm nhu, cho nên hôn nhân không tốt, là tiêu chí tương khắc của khí trường. Ngày sinh gặp phải, nhẹ thì vợ chồng bất hoà, nặng thì li dị. Trong thực tế dự đoán điều này rất chính xác. Có một số cặp vợ chồng khi chưa đến vận khắc cũng thể hoặc cùng chồng thì chưa có hiện tượng gì, nhưng đó chỉ là tạm thời. Nếu trụ năm là thiện hợp địa chỉ thì đó lại là trường hợp khác, ở đây chưa bàn đến.
Thiên La, Địa Võng
Thiên la và địa võng được tra bằng chi ngày hoặc chi năm để tra các chi khác trong Tứ trụ. Chi ngày, năm là Dần, Ngọ, Tuất gặp Mão. Chi ngày, năm là Thân, Tí, Thìn gặp Tị. Chi ngày, năm là Tị, Dậu, Sửu gặp Dần. Chi ngày, năm là Hợi, Mão, Mùi gặp Tí.
Phù hợp với tên gọi, thiên la có liên quan đến vị trí trời, nghĩa là đất tuất hợi; và địa võng là đất thìn tị. Thiên la địa võng là hung thần ác sát, là một trong những tiêu chí quan họa lao dịch. Nếu trong Tứ trụ thiên la địa võng xuất hiện đồng thời với tam hình là kị thì khi gặp tuế vận thông thường là khó tránh khỏi lưới pháp luật.