Văn hóa truyền thống của người Việt Nam luôn coi trọng nghi lễ an táng như một hành động thể hiện lòng thành kính đối với người quá cố. Trong quá trình tổ chức lễ an táng, xem xét trùng tang theo tuổi của người quá cố là một yếu tố quan trọng. Điều này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về việc họ có còn mắc kẹt với những vấn đề cuộc sống chưa hoàn tất. Hãy cùng tìm hiểu chi tiết về cách tính nhập mộ trùng tang và thiên di trong bài viết dưới đây.
Contents
Nhập mộ là gì? Khái niệm về trùng tang và thiên di
Theo kinh nghiệm của người xưa, chúng ta có thể nhận thấy rằng với mỗi lần người chết, có những tình huống sau:
-
Thiên Di: Đây là dấu hiệu cho thấy hình thức tồn tại của người quá cố chuyển đi theo sự quyết định của trời. Điều này khẳng định rằng họ đã “rời bỏ”. Dự đoán rằng con cháu sẽ phải tách rời, tài sản sẽ phân tán, và có khả năng xảy ra tranh chấp.
-
Nhập Mộ: Đây là dấu hiệu cho thấy người quá cố đã yên nghỉ một cách vĩnh viễn, không còn liên quan gì đến cuộc sống trần thế nữa. Điều này tượng trưng cho sự bình an và yên nghỉ. Việc có ít nhất một nhập mộ theo tuổi, tháng, ngày, giờ được xem là tốt. Dự đoán rằng người quá cố sẽ không có thất bại hay bất hạnh trong đời, con cháu sẽ thịnh vượng và may mắn.
-
Trùng Tang: Đây là dấu hiệu cho thấy người quá cố đã ra đi mà không hợp với số phận, chưa thể kết thúc một cách dứt khoát, và vẫn còn ảnh hưởng đến thế gian. Dự đoán rằng sẽ có thêm người thân khác sẽ chết theo sau. Theo quan điểm truyền thống, nếu gặp trùng tang mà không có nhập mộ, cần tìm người có kinh nghiệm để tiến hành lễ trấn trùng tang.
Cách tính nhập mộ
Theo phong tục truyền thống, cách tính nhập mộ của người đã qua đời được xác định bằng 4 bước: năm – tháng – ngày – giờ.
-
Năm nhập mộ: Bắt đầu từ 10 tuổi, nam giới tính từ Dần theo chiều kim đồng hồ, nữ giới tính từ Thân theo chiều ngược kim. Nếu tuổi kết thúc chục và còn năm lẻ, chuyển sang cung tiếp theo đến năm mất. Nếu rơi vào các cung Thìn – Tuất – Sửu – Mùi, năm nhập mộ sẽ áp dụng.
-
Tháng nhập mộ: Sử dụng tháng giêng của năm mất, liên kết với cung năm và tính đến tháng mất. Nếu rơi vào cung Thìn – Tuất – Sửu – Mùi, tháng nhập mộ áp dụng.
-
Ngày nhập mộ: Tương tự như tháng, sử dụng ngày mùng 1 liên kết với cung tháng và tính đến ngày mất. Nếu gặp cung Thìn – Tuất – Sửu – Mùi, ngày nhập mộ áp dụng.
-
Giờ nhập mộ: Sử dụng giờ Tý của ngày mất, liên kết với cung ngày và tính đến giờ mất. Nếu rơi vào cung Thìn – Tuất – Sửu – Mùi, giờ nhập mộ áp dụng.
-
Khi có đầy đủ cả năm, tháng, ngày và giờ nhập mộ, được gọi là “Tứ nhập mộ” và được coi là điều vô cùng tốt lành.
Hướng dẫn cách tính trùng tang đơn giản nhất
Khi người chết dưới 10 tuổi, không tính là trùng tang. Ngoài ra, có 5 cách tính nhập mộ trùng tang phổ biến:
Tính theo giờ mất
Trùng tang có thể xảy ra trong thời gian từ ngày mất, trùng với năm (ví dụ, người tuổi Dần mất vào năm Dần), trùng với ngày (ví dụ, người tuổi Sửu mất vào ngày Sửu) hoặc trùng với giờ (ví dụ, người tuổi Ngọ mất vào giờ Ngọ).
Tính theo tuổi âm
Phương pháp tính thông dụng (dựa trên tuổi âm lịch):
-
Sử dụng 12 cung địa chi trên bàn tay để tính toán. Nam tính từ Dần theo chiều kim đồng hồ, nữ tính từ Thân theo chiều ngược kim.
-
Bắt đầu từ 10 tuổi, liên kết với cung tiếp theo là 20 tuổi, … và tính đến tuổi chẵn của người đã qua đời. Sau đó, liên kết với cung tiếp theo là tuổi lẻ và tính đến tuổi của họ. Cung mà họ gặp sẽ là cung tuổi.
-
Từ cung tuổi, liên kết với cung tiếp theo là tháng 1, tính lần lượt đến tháng mất. Cung mà họ gặp sẽ là cung tháng.
-
Từ cung tháng, liên kết với cung tiếp theo là ngày 1, tính lần lượt đến ngày mất. Cung mà họ gặp sẽ là cung ngày.
-
Từ cung ngày, liên kết với cung tiếp theo là giờ Tý, tính lần lượt đến giờ mất. Cung mà họ gặp sẽ là cung giờ.
Tính do chôn sai ngày
Để xác định trùng tang, chúng ta cần xem ngày chôn cất của người đã qua đời:
- Tháng giêng: ngày 7, 19.
- Tháng hai, tháng ba: ngày 6, 18, 30.
- Tháng tư: ngày 4, 16, 28.
- Tháng năm, tháng sáu: ngày 3, 15, 27.
- Tháng bảy: ngày 1, 12, 25.
- Tháng tám, tháng chín: ngày 12, 24.
- Tháng mười: ngày 10, 22.
- Tháng mười một – tháng chạp: ngày 9, 21.
Khi người chết được chôn vào các ngày này, đó là dấu hiệu của trùng tang và cần phải giải quyết ngay lập tức.
Tính trùng tang liên táng
Cách tính trùng tang liên táng như sau:
- Tuổi Tý, Tuổi Thân, Tuổi Tỵ: người chết vào năm tháng ngày giờ của cung Tỵ.
- Tuổi Dần, Tuổi Ngọ, Tuổi Tuất: người chết vào năm tháng ngày giờ của cung Hợi.
- Tuổi Tỵ, Tuổi Dậu, Tuổi Sửu: người chết vào năm tháng ngày giờ của cung Dần.
- Tuổi Hợi, Tuổi Mão, Tuổi Vị: người chết vào năm tháng ngày giờ của cung Thân.
- Ngày và giờ chết gọi là ngày giờ kiếp sát (theo Tứ trụ). Trong văn hóa dân gian, ngày này còn được gọi là “Cướp Sát”.
Tính do phạm thần trùng
Cùng nhìn vào từng tháng của năm:
-
Tháng 1, 2, 6, 9, 12: Nếu chết vào ngày Canh Dần hoặc Canh Thân, đó là phạm Thần Trùng “Lục Canh Thiên Hình”. Nếu có thêm năm và tháng, tình trạng này càng nặng nề hơn.
-
Tháng 3: Nếu chết vào ngày Tân Tị hoặc Tân Hợi, đó là phạm Thần Trùng “Lục Tân Thiên Đình”. Nếu có yếu tố năm và tháng, tình trạng này càng tăng cao hơn.
-
Tháng 4: Nếu chết vào ngày Nhâm Dần hoặc Nhâm Thân, đó là phạm Thần Trùng “Lục Nhâm Thiên Lao”. Khi kết hợp với năm và tháng, tình trạng này càng trở nên nặng nề hơn.
-
Tháng 5: Nếu chết vào ngày Quý Tị hoặc Quý Hợi, đó là phạm Thần Trùng “Lục Quý Thiên Ngục”. Khi kết hợp với năm và tháng, tình trạng này càng phức tạp hơn.
-
Tháng 7: Nếu chết vào ngày Giáp Dần hoặc Giáp Thân, đó là phạm Thần Trùng “Lục Giáp Thiên Phúc”. Khi có thêm năm và tháng, tình trạng này càng khó khăn hơn.
-
Tháng 8: Nếu chết vào ngày Ất Tị hoặc Ất Hợi, đó là phạm Thần Trùng “Lục Ất Thiên Đức”. Khi kết hợp cả năm và tháng, tình trạng này càng gia tăng.
-
Tháng 10: Nếu chết vào ngày Bính Dần hoặc Bính Thân, đó là phạm Thần Trùng “Lục Bính Thiên Uy”. Khi có thêm yếu tố năm và tháng, tình trạng này càng trở nên phức tạp.
-
Tháng 11: Nếu chết vào ngày Đinh Tị hoặc Đinh Hợi, đó là phạm Thần Trùng “Lục Đinh Thiên Âm”. Khi kết hợp cả năm và tháng, tình trạng này càng nặng hơn.
Trên đây là toàn bộ kiến thức về cách tính nhập mộ trùng tang và thiên di. Từ bài viết, chúng ta có thể nhận thấy rằng việc xác định những yếu tố này dựa trên cơ sở của thuyết Âm Dương – Ngũ Hành. Điều này cho thấy rõ ràng rằng những nguyên tắc này không chỉ đơn thuần là quan niệm mê tín, mà còn có những cơ sở hợp lý. Kể cả trong thời đại hiện đại, các khía cạnh này vẫn chưa thể giải thích hoàn toàn bằng khoa học.